Nâng cao chất lượng giống: Chìa khóa cho thương hiệu gạo Việt
Giống lúa - từ vị trí “thứ tư” thành nền tảng sản xuất
Theo Ông Trần Xuân Định, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Thương mại giống cây trồng Việt Nam, nếu trước đây canh nông coi “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”, thì hiện nay, giống phải được đặt lên hàng đầu.
Thống kê cho thấy, tại miền Bắc, hệ thống sản xuất giống chính quy (doanh nghiệp, trung tâm giống) đáp ứng khoảng 80% nhu cầu gieo cấy trên 2,4 triệu ha mỗi năm, tương đương 65.000–70.000 tấn giống. Ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), tỷ lệ này chỉ đạt khoảng 45%, trong khi nông hộ và hợp tác xã sản xuất thêm khoảng 25%, phần còn lại nông dân tự để giống.
Riêng lúa lai, năm 2020 cả nước chỉ sản xuất 2.560 ha giống lúa lai F1, năng suất bình quân 2,5 tấn/ha, cung cấp 6.500 tấn hạt lai, mới đáp ứng khoảng 35% nhu cầu. Diện tích này có xu hướng giảm dần qua các năm.
Trong giai đoạn 2015–2019, Việt Nam công nhận 76 giống lúa mới, nhiều giống cho năng suất cao hơn 10–15% so với giống phổ biến, đồng thời kháng sâu bệnh, chịu hạn mặn, phèn. Đây là cơ sở để nâng cao giá trị hạt gạo trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
![]() |
| Trước đây canh nông coi “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”, thì hiện nay, giống phải được đặt lên hàng đầu. |
Vùng trọng điểm nhưng vẫn là “vùng trũng” về giống
Nhiều giống lúa chất lượng cao đã được đưa vào sản xuất đại trà như RVT, Đài thơm 8, OM5451, ST24, với diện tích hàng trăm nghìn ha, mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Theo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), tính đến hết năm 2024, diện tích gieo trồng một số giống phổ biến tại ĐBSCL như sau: OM18 (1.014.742 ha), Đài thơm 8 (781.231 ha), OM5451 (634.902 ha), IR4625 (264.645 ha), DDS1 (154.807 ha).
Các giống này giúp tăng năng suất (10–15% với lúa lai, 8–10% với lúa thuần) và nâng thu nhập nông dân thêm khoảng 15–16 triệu đồng/ha/năm. Bộ giống thơm, gạo đặc sản đang đóng góp quan trọng vào việc xây dựng thương hiệu gạo Việt.
Tuy nhiên, nghịch lý là ĐBSCL – vùng trọng điểm sản xuất lúa gạo quốc gia – lại có tỷ lệ sử dụng giống không chính quy cao. Việc dùng giống kém chất lượng khiến hạt lúa dễ thoái hóa, lẫn tạp, mất đặc tính vốn có, kéo dài thời gian sinh trưởng và làm giảm hương vị, chất lượng gạo. Hậu quả là giá bán thấp, thậm chí bị từ chối thu mua để xuất khẩu. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho nông dân mà còn ảnh hưởng tới uy tín thương hiệu gạo Việt Nam.
![]() |
| ĐBSCL – vùng trọng điểm sản xuất lúa gạo quốc gia – có tỷ lệ sử dụng giống không chính quy cao |
Công nghệ sau thu hoạch – yếu tố quyết định chất lượng
Theo các nhà khoa học, chất lượng hạt giống không chỉ phụ thuộc quá trình sản xuất trên đồng ruộng mà còn ở khâu sau thu hoạch. Thu hoạch đúng thời điểm (khi 96% hạt đã chín vàng) là yếu tố quan trọng. Hạt giống cần được vận chuyển, sấy ở nhiệt độ dưới 41°C để giữ nguyên phôi. Các nhà máy đã áp dụng công nghệ sấy hiện đại công suất lớn, kèm quy trình làm mát sơ bộ trước khi sấy nhằm duy trì tỷ lệ nảy mầm cao.
Khâu chế biến, phân loại cũng có vai trò then chốt. Hệ thống sàng phân ly trọng lượng riêng giúp loại bỏ hạt lép, non, cỏ dại, chỉ giữ lại hạt chắc mẩy, đồng đều, tạo ra lô giống thuần khiết, đảm bảo chất lượng.
Một hướng đi mới là ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào giám định hạt gạo. Công nghệ này có thể phân tích đặc tính, nhận diện giống mong muốn và loại bỏ tạp lẫn mà không làm hỏng hạt. Nhờ vậy, doanh nghiệp thu mua và nhà máy xay xát có thể quyết định nhanh chóng, chính xác hơn, giảm nguy cơ nhiễm tạp và tiết kiệm thời gian trong giao dịch khối lượng lớn.
Theo các chuyên gia, AI sẽ nâng cao độ tin cậy trong thương mại, đặc biệt trong bối cảnh thị trường quốc tế ngày càng yêu cầu gạo thuần chủng, chất lượng cao.
![]() |
| Với giống đạt chuẩn, nông dân vừa giảm chi phí phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, vừa bán được gạo giá cao. |
Các chuyên gia đều cho rằng, chỉ khi áp dụng đồng bộ khoa học và công nghệ trong toàn bộ chuỗi sản xuất giống – từ đồng ruộng, sau thu hoạch, chế biến đến kiểm định bằng công nghệ cao – Việt Nam mới duy trì được chất lượng hạt gạo ổn định.
Thực tế cho thấy nhiều giống như Đài thơm 8, Hương Châu 6, RVT đã chứng minh khả năng cạnh tranh quốc tế. Với giống đạt chuẩn, nông dân vừa giảm chi phí phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, vừa bán được gạo giá cao.
Việc kiểm soát chất lượng giống là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030. Đây cũng là bước đi chiến lược để khẳng định vị thế bền vững của gạo Việt trên thị trường thế giới.
Có thể bạn quan tâm
Cùng chuyên mục
Tin khác
Thị trường tiêu dùng Hà Nội sôi động với “Ngày hội khuyến mại tháng 11”
Hàng Việt giữ vững “trụ đỡ” thị trường nội địa, khẳng định thương hiệu quốc gia
Cảnh báo thuốc giả: Cách nhận biết để bảo vệ bản thân và gia đình
Tuyên Quang: Xúc tiến thương mại – “đòn bẩy” đưa sản phẩm thế mạnh vươn xa
Đắk Lắk kiến nghị khẩn gỡ ách tắc gần 2.000 container sầu riêng xuất khẩu
NSND Tự Long “chốt đơn” Gạo ST25 trên sóng livestream: Cách làm mới quảng bá nông sản Việt
Volkswagen “khai tử” Touareg, mở đường cho SUV điện đầu bảng ID. Touareg
Khởi tố bốn đối tượng "phù phép" thịt trâu kém chất lượng thành thịt bò Wagyu
Nhiều doanh nghiệp xin thu hồi giấy phép lưu hành thuốc



