Chè Việt Nam đứng Top 5 xuất khẩu thế giới nhưng vẫn loay hoay ở “vùng trũng” giá rẻ
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, 7 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu chè đạt 69,9 nghìn tấn, tương đương 117 triệu USD, giảm 10,9% về khối lượng và giảm 12,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Giá xuất khẩu bình quân chỉ đạt 1.674 USD/tấn, thấp hơn 35% so với mức bình quân thế giới và bằng khoảng 55% giá chè từ Ấn Độ và Sri Lanka. Ba thị trường tiêu thụ lớn nhất hiện là Pakistan (35,7%), Đài Loan (11,4%) và Trung Quốc (9,7%).
Ở các thị trường nhập khẩu chè lớn trên thế giới, thị phần của Việt Nam vẫn rất nhỏ. Tại EU, chè Việt chỉ chiếm 0,6% tổng trị giá nhập khẩu từ các nước ngoài khối. Tại Mỹ – thị trường đa dạng và đang ưa chuộng chè đặc sản, chè hữu cơ – thị phần của Việt Nam mới đạt 2%. Con số này ở Anh chỉ 0,2%, tại Nhật Bản 1,6% và Australia 0,3%.
![]() |
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, 7 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu chè đạt 69,9 nghìn tấn, tương đương 117 triệu USD |
Nguyên nhân khiến chè Việt Nam khó chen chân vào phân khúc cao cấp là do phần lớn sản phẩm xuất khẩu vẫn ở dạng thô, đóng gói đơn giản, thiếu nhãn mác và câu chuyện thương hiệu. TS. Nguyễn Văn Toàn, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc, cho biết giá xuất khẩu trung bình của chè Việt chỉ khoảng 1,75 USD/kg, trong khi giá bán tại thị trường nội địa có thể đạt 7,5 USD/kg, thậm chí trên 20 USD/kg đối với các loại chè đặc sản như Thái Nguyên.
Cơ cấu sản phẩm cũng có sự thay đổi rõ rệt, khi chè xanh chiếm gần 60% sản lượng và 70% giá trị xuất khẩu, còn chè đen giảm xuống 39%. Mặc dù vậy, theo ông Hoàng Vĩnh Long – Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam – thế giới vẫn coi Việt Nam là nguồn cung giá rẻ, còn người làm chè thường chỉ tập trung vào sản lượng để đáp ứng các hợp đồng ngắn hạn, thiếu chiến lược nâng tầm chất lượng.
Để thoát khỏi “bẫy giá rẻ”, các chuyên gia cho rằng ngành chè cần đẩy mạnh chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm như Ô long, Matcha, Sencha, chè túi lọc… nhằm nâng tỷ lệ sản phẩm chế biến hiện đại lên trên 40% trong cơ cấu xuất khẩu. Cùng với đó là xây dựng thương hiệu vùng, gắn với mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc, đáp ứng tiêu chuẩn xanh và sạch, đồng thời tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân và chính quyền địa phương.
Theo Đề án phát triển cây công nghiệp chủ lực đến năm 2030, diện tích trồng chè cả nước dự kiến đạt 130 – 135 nghìn ha, sản lượng khoảng 1,4 – 1,5 triệu tấn búp tươi, giá trị xuất khẩu 280 – 300 triệu USD. Tỷ lệ chế biến sâu sẽ tăng lên 20 – 25%, trong đó các sản phẩm cao cấp và đặc sản sẽ được ưu tiên để nâng giá trị.
Với xu hướng tiêu dùng bền vững và nhu cầu ngày càng lớn ở thị trường cao cấp, nếu cải thiện chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm và xây dựng thương hiệu mạnh, chè Việt Nam hoàn toàn có thể nâng giá trị xuất khẩu và định vị ở phân khúc trung – cao, thay vì mãi ở “vùng trũng” giá rẻ như hiện nay.
![]() |
![]() |
![]() |
Có thể bạn quan tâm
Tin khác

Dự báo giá vàng tuần mới: Các bất ổn vĩ mô có đủ sức hỗ trợ sau phiên giảm đầu tuần?

Giá tiêu chạm đỉnh 5 năm, thị trường sôi động trước áp lực cung và cầu

Giá cà phê chững lại ở vùng đỉnh, nông dân găm hàng chờ mốc 120.000 đồng/kg

Thị trường hồ tiêu nóng lên: 142.000 đồng/kg – đỉnh 5 năm

Giá cà phê hôm nay 10/8 tăng 2.500 đồng/kg, lập đỉnh gần 2 tháng

Giá hồ tiêu hôm nay 9/8: Lâm Đồng – Đắk Lắk dẫn đầu, thị trường ổn định xu hướng tăng

Giá cà phê hôm nay 9/8: Tăng mạnh, lập đỉnh mới trong nước – Quốc tế bứt phá ấn tượng

Ngành tôm Indonesia xoay trục sang Trung Quốc sau cú sốc thuế quan từ Mỹ

Giá tiêu hôm nay 8/8: Thị trường đi ngang, Đắk Lắk lập đỉnh mới 141.000 đồng/kg
