Chỉ số sản xuất công nghiệp quý II/2021 tăng 11,45% so với cùng kỳ

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê sản xuất công nghiệp trong quý II/2021 tăng trưởng khá do hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được duy trì và đang dần phục hồi, tốc độ tăng giá trị tăng thêm đạt 11,45% so với cùng kỳ năm trước.
TP HCM: Chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm tăng 7,4% Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 5/2021 tăng 1,6% Hà Nội: Chỉ số sản xuất công nghiệp IIP tăng 9,4% so với cùng kỳ

Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 8,91%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,42%, cao hơn tốc độ tăng 5,06% của cùng kỳ năm 2020.

Chỉ số sản xuất công nghiệp quý II/2021 tăng 11,45% so với cùng kỳ
Chỉ số sản xuất công nghiệp quý II/2021 tăng 11,45% so với cùng kỳ

Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2021 ước tính tăng 8,91% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 6,29%; quý II tăng 11,45%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,42% (quý I tăng 8,9%; quý II tăng 13,84%), đóng góp 2,9 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,16%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,75%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 6,61% (do sản lượng khai thác dầu thô giảm 7,3% và khí đốt tự nhiên dạng khí giảm 12,5%) làm giảm 0,25 điểm phần trăm trong mức tăng chung.

Theo công dụng sản phẩm công nghiệp, chỉ số sản xuất sản phẩm trung gian (phục vụ cho quá trình sản xuất) 6 tháng đầu năm 2021 tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước; sản phẩm phục vụ cho sử dụng cuối cùng tăng 8,7% (trong đó sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng của dân cư tăng 5,7%).

Chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm 2021 của một số ngành trọng điểm thuộc ngành công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại tăng 37%; sản xuất xe có động cơ tăng 33,1%; hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai thác mỏ và quặng tăng 29,4%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 17,2%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 15,3%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 12,9%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 12,7%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải, tái chế phế liệu tăng 12,6%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 11,2%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 10,6%; sản xuất thiết bị điện tăng 10,1%.

Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số giảm: Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10,1%; khai thác than cứng và than non giảm 4,4%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 3,9%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 2,3%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị giảm 1,8%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 1,5%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp quý II/2021 tăng 11,45% so với cùng kỳ

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong 6 tháng đầu năm 2021 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Thép cán tăng 61,6%; ô tô tăng 50%; linh kiện điện thoại tăng 38,8%; phân hỗn hợp NPK và điện thoại di động cùng tăng 18,1%; sắt, thép thô tăng 16,6%; sữa bột tăng 15,9%; vải dệt từ sợi nhân tạo tăng 11,7%; xe máy tăng 11,5%; giày, dép da tăng 11,4%; sơn hóa học tăng 11%; thức ăn cho gia súc tăng 10,8%. Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 12,5%; đường kính giảm 8,4%; phân u rê giảm 8,1%; dầu mỏ thô khai thác giảm 7,3%; bột ngọt giảm 5,4%; than sạch giảm 4,3%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6/2021 tăng 4,9% so với tháng trước và tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất xe có động cơ tăng 29,8%; sản xuất kim loại tăng 25,3%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 24,1%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 16,1%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 15,9%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 12,1%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 11,7%; sản xuất thiết bị điện tăng 10,9%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 16,9%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 14,4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 14%; sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế giảm 3,9%.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/6/2021 tăng 24,3% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2020 tăng 26,7%), trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 15,9%; sản xuất trang phục tăng 15,8%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 12,7%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 6,3%; sản xuất kim loại tăng 4,3%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 4%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 0,4%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 14,2%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 15,1%.

Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng thời điểm năm trước: Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 44,4%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 39,9%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 38,6%; sản xuất xe có động cơ tăng 36,4%; sản xuất thiết bị điện tăng 29,9%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 28,1%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 26,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 25,3%.

Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 6 tháng đầu năm 2021 đạt 75,2% (cùng kỳ năm trước là 81,5%), trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic 124,5%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa 119,2%; dệt 117,8%; sản xuất chế biến thực phẩm 108,1%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 105,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) 104%; sản xuất thiết bị điện 102,5%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/6/2021 giảm 1,4% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 1% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 0,1% và giảm 2,3%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 0,4% và tăng 0,6%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,1% và giảm 1,4%.

Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng không đổi so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,5% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo giảm 1,5% và giảm 1%; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hòa không khí tăng 0,1% và tăng 0,3%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải không đổi và giảm 0,4%.

Minh Kiệt

Cùng chuyên mục

Tin khác

Hội nghị công bố và trao Quyết định bổ nhiệm chức vụ Hiệu trưởng trường THPT Tô Hiệu

Hội nghị công bố và trao Quyết định bổ nhiệm chức vụ Hiệu trưởng trường THPT Tô Hiệu

Ngày 27/03/2024, tại văn phòng trường THPT Tô Hiệu - Thường Tín, Sở GD&ĐT Hà Nội đã trang trọng tổ chức Hội nghị công bố và trao Quyết định điều động, bổ nhiệm chức danh Hiệu trưởng trường THPT Tô Hiệu đối với đồng chí Nguyễn Đình Bang.
Nhập khẩu đậu tương 9 tháng trị giá trên 934,98 triệu USD

Nhập khẩu đậu tương 9 tháng trị giá trên 934,98 triệu USD

Tính chung 9 tháng năm 2023 cả nước nhập khẩu trên 1,47 triệu tấn đậu tương, trị giá trên 934,98 triệu USD, giá trung bình 635,4 USD/tấn, tăng 5,3% về lượng, nhưng giảm 4,1% kim ngạch và giảm 8,9% về giá so với 9 tháng năm 2022.
Tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước đạt hơn 464 tỷ USD

Tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước đạt hơn 464 tỷ USD

Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, tính đến hết ngày 15/9/2023 tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước đạt 464,08 tỷ USD.
Việt Nam đã chi gần 1,11 tỷ USD nhập khẩu lúa mì

Việt Nam đã chi gần 1,11 tỷ USD nhập khẩu lúa mì

Lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước trong 8 tháng năm 2023 đạt gần 3,15 triệu tấn, tương đương gần 1,11 tỷ USD, tăng 9,2% về khối lượng, tăng 1,5% về kim ngạch so với 8 tháng năm 2022.
Xuất khẩu thủy sản 8 tháng đạt gần 5,79 tỷ USD

Xuất khẩu thủy sản 8 tháng đạt gần 5,79 tỷ USD

8 tháng năm 2023, xuất khẩu nhóm hàng thủy sản đạt gần 5,79 tỷ USD, giảm 24% so với cùng kỳ năm 2022.
Xuất khẩu gạo tăng cả về khối lượng và kim ngạch

Xuất khẩu gạo tăng cả về khối lượng và kim ngạch

8 tháng năm 2023 cả nước xuất khẩu trên 5,81 triệu tấn gạo, tương đương trên 3,16 tỷ USD, tăng 21,4% về khối lượng, tăng 35,7% về kim ngạch so với 8 tháng năm 2022.
Loại cây của Việt Nam đứng thứ 6 thế giới về sản lượng, đem xuất khẩu thu gần 22 triệu USD trong tháng 8

Loại cây của Việt Nam đứng thứ 6 thế giới về sản lượng, đem xuất khẩu thu gần 22 triệu USD trong tháng 8

Theo số liệu Tổng cục Hải quan cho biết, ước tính, xuất khẩu chè của Việt Nam trong tháng 8/2023 đạt 12 nghìn tấn, trị giá 22 triệu USD, giảm 14,6% về lượng và giảm 21,3% về trị giá so với tháng 7/2023.
Chú trọng ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát

Chú trọng ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát

Đó là nội dung tại Nghị quyết 144/NQ-CP phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 năm 2023 vừa được Chính phủ ban hành.
Bổ sung 3 nước được áp dụng thuế xuất nhập khẩu ưu đãi theo Hiệp định CPTPP

Bổ sung 3 nước được áp dụng thuế xuất nhập khẩu ưu đãi theo Hiệp định CPTPP

Theo Nghị định số 68/2023/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành, bổ sung Malaysia, Chile và Brunei áp dụng thuế xuất khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương giai đoạn 2022- 2027.
Xuất khẩu thủy sản đang dần thu hẹp tăng trưởng âm

Xuất khẩu thủy sản đang dần thu hẹp tăng trưởng âm

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), tới nửa đầu tháng 8, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 5,3 tỷ USD, giảm 25% so với cùng kỳ năm 2022.
Xem thêm

Thương hiệu nổi bật

partner-vingroup
partner-bivaco
partner-shb
partner-tan-hoang-minh-group
partner-hdbank
partner-sunshine-group
partner-vinacomin
partner-viglacera
partner-giovanni
partner-th
partner-bacabank
partner-danko-group
bidv3
Phiên bản di động