Giá heo hơi hôm nay 12/2: Tiếp tục đi ngang vào sáng đầu tuần
Giá heo hơi hôm nay tại miền Bắc thấp nhất 58.000 đồng/kg
Giá heo hơi tại miền Bắc tiếp tục không có biến động mới vào phiên sáng nay.
Trong đó, khu vực tỉnh Thái Nguyên đang triển khai giá heo hơi cao nhất là 59.000 đồng/kg. Trái lại, hai tỉnh Bắc Giang và Lào Cai đang giao dịch heo hơi tại mức 57.000 đồng/kg - thấp nhất khu vực.
Các tỉnh thành còn lại duy trì thu mua ổn định với giá 58.000 đồng/kg.
Giá heo hơi hôm nay tại miền Bắc trong khoảng 57.000 - 59.000 đồng/kg.
Địa phương | Giá (đồng) | Tăng/giảm (đồng) |
Bắc Giang | 57.000 | - |
Yên Bái | 58.000 | - |
Lào Cai | 57.000 | - |
Hưng Yên | 58.000 | - |
Nam Định | 58.000 | - |
Thái Nguyên | 59.000 | - |
Phú Thọ | 58.000 | - |
Thái Bình | 58.000 | - |
Hà Nam | 58.000 | - |
Vĩnh Phúc | 58.000 | - |
Hà Nội | 58.000 | - |
Ninh Bình | 58.000 | - |
Tuyên Quang | 58.000 | - |
Giá heo hơi hôm nay tại miền Trung, Tây Nguyên quanh mốc trung bình 55.000 đồng/kg
Theo ghi nhận, thị trường heo hơi miền Trung, Tây Nguyên đi ngang trên diện rộng.
Cụ thể, thương lái tại Thanh Hóa đang thu mua heo hơi với giá cao nhất khu vực là 57.000 đồng/kg. Thấp hơn một giá là khu vực tỉnh Nghệ An, với giá ổn định 56.000 đồng/kg.
Heo hơi tại các tỉnh còn lại đang được giao dịch với giá từ 54.000 đồng/kg đến 55.000 đồng/kg.
Hiện tại, giá heo hơi ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên trong khoảng 54.000 - 57.000 đồng/kg.
Địa phương | Giá (đồng) | Tăng/giảm (đồng) |
Thanh Hoá | 57.000 | - |
Nghệ An | 56.000 | - |
Hà Tĩnh | 55.000 | - |
Quảng Bình | 54.000 | - |
Quảng Trị | 54.000 | - |
Thừa Thiên Huế | 54.000 | - |
Quảng Nam | 54.000 | - |
Quảng Ngãi | 54.000 | - |
Bình Định | 55.000 | - |
Khánh Hoà | 54.000 | - |
Lâm Đồng | 54.000 | - |
Đắk Lắk | 54.000 | - |
Ninh Thuận | 54.000 | - |
Bình Thuận | 55.000 | - |
Giá heo hơi hôm nay tại miền Nam cao nhất 55.000 đồng/kg
Ở khu vực phía Nam, giá heo hơi cũng lặng sóng theo xu hướng chung của thị trường.
Hiện, heo hơi tại Đồng Tháp, Vĩnh Long và Bến Tre đang được thương lái thu mua với giá thấp nhất là 52.000 đồng/kg.
Ngoại trừ Đồng Nai đang neo tại ngưỡng 55.000 đồng/kg, heo hơi tại các tỉnh thành còn lại đang được giao dịch với giá trong khoảng 53.000 - 54.000 đồng/kg.
Giá heo hơi khu vực miền Nam hôm nay dao động trong khoảng 52.000 - 55.000 đồng/kg.
Địa phương | Giá (đồng) | Tăng/giảm (đồng) |
Bình Phước | 54.000 | - |
Đồng Nai | 55.000 | - |
TP HCM | 54.000 | - |
Bình Dương | 54.000 | - |
Tây Ninh | 54.000 | - |
Vũng Tàu | 54.000 | - |
Long An | 54.000 | - |
Đồng Tháp | 52.000 | - |
An Giang | 53.000 | - |
Vĩnh Long | 52.000 | - |
Cần Thơ | 54.000 | - |
Kiên Giang | 54.000 | - |
Hậu Giang | 53.000 | - |
Cà Mau | 53.000 | - |
Tiền Giang | 53.000 | - |
Bạc Liêu | 53.000 | - |
Trà Vinh | 53.000 | - |
Bến Tre | 52.000 | - |
Sóc Trăng | 54.000 | - |
Thịt lợn nhập khẩu tăng khiến ngành chăn nuôi gặp khó
Theo ông Nguyễn Xuân Dương - nguyên quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), hiện nay ngành chăn nuôi Việt Nam gặp nhiều khó khăn có nhiều lý do, đặc biệt là hội nhập khiến cho chăn nuôi đang trở thành ngành kinh tế yếu thế nhất trong khu vực nông nghiệp. Trong khi dịch bệnh vẫn luôn diễn biến phức tạp làm phát sinh nhiều chi phí đầu vào, nhất là dịch tả lợn châu Phi.
Khi dịch Covid-19 xảy ra, sản phẩm chăn nuôi tiêu thụ rất khó vì chủ yếu là hàng tươi sống, khó giết mổ và lưu thông được... "Những cái khó cứ tích tụ lại và hội chứng lớn nhất bây giờ là không gian chăn nuôi của Việt Nam vốn đã không rộng nay càng bị thu hẹp hơn, thị trường không còn nữa…" - ông Dương nói.
Trong khi nguồn cung sản phẩm chăn nuôi ở trong nước tăng lên nhưng sức mua lại không tăng và cũng không xuất khẩu được. Cùng với đó là lượng sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu từ 2 - 3 năm trở lại đây tăng mạnh.
Cụ thể, thịt lợn nhập khẩu gần 300.000 tấn móc hàm/năm, quy ra lợn hơi khoảng gần 400.000 tấn, chiếm trên 10% lượng thịt lợn sản xuất trong nước, đó là chưa kể số lượng lợn nhập khẩu tiểu ngạch không thống kê được. Về gia cầm, trước chỉ nhập khẩu 80.000 - 90.000 tấn/năm, giờ khoảng trên 250.000 tấn/năm, quy ra cỡ 350.000 tấn hơi. Như vậy nhập khẩu đã chiếm tới 25 - 27% so với sản xuất trong nước.
Về nhóm thịt gia súc ăn cỏ cũng không ngừng gia tăng. Ngoài các loại thịt và phụ phẩm (móng vó, tim, nội tạng khác) ở dạng đông lạnh và lượng bò sống nhập từ Úc về khoảng 500.000 con/năm để vỗ béo, giết thịt bằng con đường nhập khẩu chính ngạch thì còn một lượng lớn trâu, bò nhập khẩu tiểu ngạnh (nhập lậu) không thể thống kê được.
Ước tính lượng thịt trâu, bò, dê, cừu nhập khẩu đang chiếm tới trên 60% thị trường trong nước là nguy cơ quá cao với ngành chăn nuôi nhất là nông hộ.
Theo ông Nguyễn Xuân Dương, nếu chúng ta không kiểm soát được tình hình nhập khẩu các sản phẩm chăn nuôi thì chỉ 5 - 7 năm nữa là Việt Nam sẽ trở thành nước nhập siêu các sản phẩm chăn nuôi. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến vấn đề an ninh dinh dưỡng của đất nước mà còn là sinh kế của bao nhiêu doanh nghiệp, người chăn nuôi trong nước và ý tưởng muốn Việt Nam trở thành “bếp ăn của thế giới” cũng khó trở thành hiện thực.