Giá heo hơi hôm nay 7/12: Tăng rải rác ở một vài nơi
Giá heo hơi hôm nay 4/12: Lặng sóng trên cả nước Giá heo hơi hôm nay 5/12: Giảm nhẹ ở một vài nơi Giá heo hơi hôm nay 6/12: Tiếp tục giảm, cao nhất 51.000 đồng/kg |
Giá heo hơi hôm nay tương đối ổn định
Theo ghi nhận, giá heo hơi tại khu vực miền Bắc không có nhiều thay đổi mới.
Hiện tại, thương lái ở hầu hết các địa phương đang thu mua heo hơi với giá trong khoảng 48.000 - 49.000 đồng/kg.
Riêng tỉnh Thái Nguyên tăng nhẹ 1.000 đồng/kg lên mức cao nhất là 50.000 đồng/kg.
Giá heo hơi hôm nay tại miền Bắc dao động trong khoảng 48.000 - 50.000 đồng/kg.
Địa phương | Giá (đồng) | Tăng/giảm (đồng) |
Bắc Giang | 49.000 | - |
Yên Bái | 49.000 | - |
Lào Cai | 48.000 | - |
Hưng Yên | 49.000 | - |
Nam Định | 49.000 | - |
Thái Nguyên | 50.000 | +1.000 |
Phú Thọ | 48.000 | - |
Thái Bình | 49.000 | - |
Hà Nam | 50.000 | - |
Vĩnh Phúc | 48.000 | - |
Hà Nội | 49.000 | - |
Ninh Bình | 49.000 | - |
Tuyên Quang | 49.000 | - |
Giá heo hơi hôm nay tại miền Trung, Tây Nguyên đứng yên
Thị trường heo hơi miền Trung, Tây Nguyên lặng sóng.
Cụ thể, 49.000 đồng/kg là giá heo hơi cao nhất khu vực được ghi nhận tại Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.
Heo hơi tại các địa phương còn lại được giao dịch ổn định trong khoảng 47.000 - 48.000 đồng/kg.
Hiện tại, giá thu mua heo hơi ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên trong khoảng 47.000 - 49.000 đồng/kg.
Địa phương | Giá (đồng) | Tăng/giảm (đồng) |
Thanh Hóa | 48.000 | - |
Nghệ An | 47.000 | - |
Hà Tĩnh | 47.000 | - |
Quảng Bình | 49.000 | - |
Quảng Trị | 49.000 | - |
Thừa Thiên Huế | 48.000 | - |
Quảng Nam | 49.000 | - |
Quảng Ngãi | 49.000 | - |
Bình Định | 49.000 | - |
Khánh Hoà | 48.000 | - |
Lâm Đồng | 48.000 | - |
Đắk Lắk | 47.000 | - |
Ninh Thuận | 47.000 | - |
Bình Thuận | 48.000 | - |
Giá heo hơi hôm nay tại miền Nam tăng nhẹ
Tại miền Nam, giá heo hơi tăng 1.000 đồng/kg tại tỉnh Kiên Giang, hiện ghi nhận ở mức 49.000 đồng/kg.
Các địa phương còn lại có giá đi ngang so với ngày hôm qua.
Giá heo hơi khu vực miền Nam hôm nay dao động trong khoảng 47.000 - 51.000 đồng/kg.
Địa phương | Giá (đồng) | Tăng/giảm (đồng) |
Bình Phước | 48.000 | - |
Đồng Nai | 48.000 | - |
TP HCM | 48.000 | - |
Bình Dương | 47.000 | - |
Tây Ninh | 48.000 | - |
Vũng Tàu | 48.000 | - |
Long An | 50.000 | - |
Đồng Tháp | 49.000 | - |
An Giang | 49.000 | - |
Vĩnh Long | 49.000 | - |
Cần Thơ | 49.000 | - |
Kiên Giang | 49.000 | +1.000 |
Hậu Giang | 49.000 | - |
Cà Mau | 51.000 | - |
Tiền Giang | 50.000 | - |
Bạc Liêu | 50.000 | - |
Trà Vinh | 48.000 | - |
Bến Tre | 49.000 | - |
Sóc Trăng | 49.000 | - |
Giá heo hơi liên tục chạm đáy, người nuôi lo thất thu vụ Tết
Ông Dương Tất Thắng, Cục trưởng Cục chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) nhận xét, do nguồn cung tăng mà sức tiêu thụ trên thị trường vẫn thấp nên giá heo hơi chịu áp lực giảm mạnh. Cụ thể, trong tháng 11, giá heo hơi giảm 5,34% so với cùng kỳ năm ngoái và giảm 2,79% so với tháng trước đó, giao dịch trong khoảng 47.000 50.000 đồng/kg, có nơi thậm chí còn thấp hơn tùy phân loại.
Ở mức giá này, đa phần người chăn nuôi chịu thua lỗ, cộng thêm dịch tả heo châu Phi và rủi ro giá cả nên sau khi bán heo, nhiều người chăn nuôi đã treo chuồng, không dám tái đàn.
Theo ông Thắng, giá heo hơi cũng là một trong những mặt hàng có tác động đến chỉ số CPI, nhưng chúng ta không thể tác động, can thiệp quá sâu vào thị trường. Tuy nhiên, Bộ, Cục cũng phối hợp chặt chẽ với các địa phương, đưa ra những dự báo, cảnh báo để người chăn nuôi có những bước đi bền vững.
Theo Tổng cục Hải quan, tháng 10/2023, Việt Nam nhập khẩu 81.440 tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, với giá trị 158,92 triệu USD, tăng 27,2% về lượng và tăng 7,5% về giá trị so với tháng 10/2022.
Riêng thịt heo, tính đến hết tháng 10/2023, nước ta nhập khẩu khoảng 95.400 tấn, giá trị đạt 239,37 triệu USD, tăng 7% về lượng và tăng 26,1% về giá trị.
Nói kỹ hơn về việc nhập khẩu thịt heo dù trong nước dư thừa, ông Dương Tất Thắng cho biết, 11 tháng qua chúng ta đã chủ động được nguồn cung thực phẩm trong nước với hơn 95%. Còn lại một số thực phẩm khác chúng ta không có mới phải nhập khẩu.
Ngoài ra, hiện nay chúng ta đã tham gia 15 hiệp định thương mại, trong đó 6 hiệp định có giá trị. Những sản phẩm chúng ta có lợi thế cũng được xuất ra nước ngoài khá nhiều.
“Khi tham gia vào sân chơi lớn thì chúng ta nhận được kết quả lớn, tuy nhiên cũng phải chấp nhận những yếu tố cạnh tranh. Năm 2022, chúng ta tiêu thụ hơn 7,9 triệu tấn thịt hơi và chỉ nhập khẩu vài trăm nghìn tấn. Đây là con số không đáng kể, chiếm vài phầm trăm tổng sản lượng sản xuất trong nước. Lượng thực phẩm nhập khẩu không ảnh hưởng gì đến sản xuất trong nước và có lợi cho người tiêu dùng”, ông Thắng nói.
Theo ông Thắng, khi tham gia vào các hiệp định thương mại tự do thì chúng ta phải chấp nhận sự cạnh tranh ngay trên sân nhà, trong đó người tiêu dùng được hưởng lợi nhiều nhất từ hàng hóa giá rẻ, chất lượng tốt. Điều này buộc doanh nghiệp, người chăn nuôi phải phát triển theo hướng bền vững, an toàn để có lợi thế cạnh tranh.
“Chỉ khi nào việc nhập khẩu ảnh hưởng đến thị trường trong nước, làm giảm sản xuất thì chúng ta mới có biện pháp can thiệp”, ông Thắng nói.